Cách chữa bệnh về tĩnh mạch ít đau, không sẹo
Bệnh nhân mắc bệnh lý tĩnh mạch là một bệnh rất thường gặp, có thể chiếm đến 30% dân số trưởng thành. Đáng báo động là bệnh đang ngày càng trẻ hóa.
Bệnh nhân mắc bệnh lý tĩnh mạch là một bệnh rất thường gặp, có thể chiếm đến 30% dân số trưởng thành. Đáng báo động là bệnh đang ngày càng trẻ hóa.
Theo BS. Lê Thanh Phong, bệnh biểu hiện rất đa dạng từ những tĩnh mạch mạng nhện li ti dưới da cho đến biến chứng thuyên tắc động mạch phổi có thể gây ảnh hưởng đến tính mạng. Ngoài ra, bệnh tĩnh mạch còn ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Ở các nước phát triển, việc chẩn đoán và điều trị bệnh lý tĩnh mạch tốn hằng tỉ USD mỗi năm. Tại Việt Nam, với sự phát triển của ngành Y tế, bệnh tĩnh mạch được phát hiện ngày một nhiều hơn, đồng thời, các phương pháp điều trị bệnh cũng thay đổi theo hướng ít xâm lấn, phù hợp với xu hướng phát triển y học thế giới và đáp ứng nhu cầu của người bệnh.
Bệnh lý của tĩnh mạch nông thường liên quan đến suy giãn tĩnh mạch hiển lớn, hiển bé và các nhánh. Trước đây, phẫu thuật kinh điển cắt bỏ tĩnh mạch hiển và các nhánh là một phẫu thuật được lựa chọn để điều trị bệnh. Tuy nhiên, phẫu thuật thường gây đau, bầm máu, để lại sẹo xấu hoặc có thể gây tổn thương nhánh thần kinh hiển. Khuynh hướng điều trị hiện nay là sử dụng sóng cao tần hoặc tia laser để triệt bỏ tĩnh mạch hiển và các nhánh bị bệnh. Kết quả điều trị bằng các phương pháp này cho thấy tương đương với phẫu thuật kinh điển, ngoài ra còn có ưu điểm ít đau, ít bầm máu, không sẹo và nhanh hồi phục.
Trong các bệnh lý tĩnh mạch sâu, bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới là một bệnh cần được quan tâm đặc biệt vì ngoài nguy cơ gây thuyên tắc phổi còn có thể dẫn đến tử vong, hội chứng hậu huyết khối còn gây ảnh hưởng nặng nề đến khả năng làm việc và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Trước đây, các hướng dẫn điều trị trên thế giới chỉ khuyến cáo dùng kháng đông. Hiện nay, khuyến cáo nên can thiệp lấy huyết khối bằng phẫu thuật và can thiệp nội mạch nhằm mục đích giảm nguy cơ mắc hội chứng hậu huyết khối, khuyết khối cấp tái phát và thuyên tắc phổi.
Hội chứng hậu huyết khối là một hậu quả nặng nề, thể hiện dưới dạng suy tĩnh mạch mạn tính ở các mức độ khác nhau từ phù chân, thay đổi da, đến loét chân. Điều trị trước đây chủ yếu là băng ép chân và các thuốc trợ tĩnh mạch với kết quả điều trị hạn chế. Khuynh hướng hiện nay là phục hồi lưu thông tĩnh mạch chủ-chậu-đùi bằng nong bóng và đặt stent qua can thiệp nội mạch.
Theo SKDS