Dùng nhiệt trong điều trị bệnh
Nhiệt trị liệu là một phương pháp điều trị của vật lý trị liệu, trong đó sử dụng các tác nhân gây nhiệt để mang lại hiệu quả điều trị. Tùy theo nhiệt độ của tác nhân gây nhiệt, chia thành 2 loại: nhiệt nóng và nhiệt lạnh.
Nhiệt trị liệu là một phương pháp điều trị của vật lý trị liệu, trong đó sử dụng các tác nhân gây nhiệt để mang lại hiệu quả điều trị. Tùy theo nhiệt độ của tác nhân gây nhiệt, chia thành 2 loại: nhiệt nóng và nhiệt lạnh.
Nhiệt nóng
Nhiệt nóng (có nhiệt độ từ trên 37oC đến khoảng 45-50oC) có tác dụng rất lớn đối với cơ thể con người. Chúng được biết đến với những tác dụng như: gây giãn động mạch nhỏ và mao mạch tại chỗ, có thể lan rộng ra một bộ phận hay toàn thân. Tác dụng giãn mạch làm tăng cường tuần hoàn, làm giảm co thắt, giảm đau tăng cường dinh dưỡng và chuyển hóa tại chỗ, từ đó có tác dụng giảm đau đối với các chứng đau mạn tính.
Với hệ thần kinh cơ, nhiệt nóng có tác dụng an thần điều hòa chức năng thần kinh, thư giãn cơ co thắt, điều hòa thần kinh thực vật. Do đó có tác dụng tốt với các chứng đau mạn tính gây co cơ. Mức độ giảm đau của điều trị nhiệt phụ thuộc vào loại đau và nguyên nhân đau. Tác dụng giảm đau do các cơ chế: Do tăng cường tuần hoàn tại chỗ làm nhanh chóng hấp thu các chất trung gian hóa học gây đau như bradykinin, prostaglandin...
Chườm nóng có tác dụng giãn mạch, làm tăng cường tuần hoàn, làm giảm co thắt,
giảm đau,tăng cường dinh dưỡng và chuyển hóa tại chỗ.
Kích thích nhiệt nóng được dẫn truyền theo các sợi thần kinh to sẽ ức chế cảm giác đau được dẫn truyền theo các sợi thần kinh nhỏ. Do làm thư giãn cơ. Hiện nay, nhiệt nóng được chỉ định sử dụng trong giảm đau, giảm co thắt cơ trong các chứng đau mạn tính như: đau thắt lưng, đau cổ vai cánh tay, đau thần kinh tọa, đau thần kinh liên sườn, đau khớp, đau cơ...; tăng cường dinh dưỡng tại chỗ trong các trường hợp vết thương, vết loét lâu liền, làm nhanh liền sẹo; làm giãn cơ để phục vụ các kỹ thuật trị liệu khác như xoa bóp, vận động... Tuy nhiên, với các ổ viêm đã có mủ, viêm cấp, chấn thương mới đang sung huyết, các khối u ác tính, lao, vùng đang chảy máu hoặc đe dọa chảy máu, giãn tĩnh mạch da thì không dùng được phương pháp này.
Các phương pháp điều trị nhiệt nóng
Paraffin: Paraffi n là một hỗn hợp có nhiều hydrocarbua từ dầu hỏa, paraffin dùng trong điều trị là loại tinh khiết, trung tính, màu trắng, không độc. Paraffin có nhiệt dung cao, nhiệt độ của khối paraffin nóng giảm rất chậm nên có thể truyền nhiệt cho cơ thể một lượng nhiệt lớn trong thời gian tương đối dài. Do vậy, nhiệt do paraffin truyền có thể vào tương đối sâu. Nhiệt do paraffin cung cấp là nhiệt ẩm, tức là khi ép miếng paraffin nóng vào da sẽ kích thích tăng tiết mồ hôi, nhưng mồ hôi này vẫn còn đọng lại làm cho da luôn ẩm, mềm mại và tăng tính đàn hồi (các phương pháp nhiệt khác gây bốc hơi mồ hôi làm cho da khô và giòn).
Các loại túi nhiệt:
Là các túi cao su hoặc polime bên trong đựng các chất tạo nhiệt dùng để chườm đắp vào vị trí đau. Người ta thường dùng các chất tạo nhiệt như sau: Túi paraffin: cho paraffin vào túi, đuổi hết khí rồi dán kín, khi dùng đem túi ngâm vào nước nóng 80°C cho đến khi paraffin nóng chảy hết thì lấy ra để một lát cho lớp ngoài nguội bớt thì dùng.
Túi nước: là phương pháp đơn giản nhất có thể sử dụng các túi sẵn có, đổ nước ấm 40-54°C vào túi, bịt miệng túi rồi chườm đắp lên chỗ đau.
Túi silicat: dùng silicat khô cho vào túi vải, khi ngâm vào nước các phân tử silicat hút nước làm túi phồng ra, khi đó đem túi đun trong nước cho đến nhiệt độ 50-60°C thì đem ra dùng. Sau điều trị treo túi ở nơi khô thoáng cho cát khô. Túi gel đặc biệt: trong túi chứa một loại chất gel đặc biệt, bình thường ở dạng lỏng bên trong có một nút bấm tạo phản ứng dây chuyền. Khi dùng đem bấm nút trong túi để tạo phản ứng sinh nhiệt làm túi nóng lên đồng thời chất gel bị kết tủa thành chất bột mềm, khi túi nguội đem đun túi trong nước sôi cho đến khi chất kết tủa trở lại hoàn toàn trạng thái lỏng ban đầu thì đem ra dùng.
Nước nóng:
Dùng nước nóng nhân tạo hoặc nước nóng tự nhiên ở các suối nước nóng. Ngâm tắm nước nóng toàn thân ngoài các tác dụng toàn thân như cải thiện chức năng tuần hoàn, hô hấp, thư giãn thần kinh, thư giãn cơ, còn là một biện pháp có hiệu quả trong điều trị các chứng đau mạn tính ở nhiều vị trí trong cơ thể như: viêm đa dây thần kinh, viêm đa khớp...
Ngoài ra còn dùng các phương pháp: nhiệt bức xạ - hồng ngoại nội tiết - sóng ngắn và vi sóng, nhiệt cơ học siêu âm...
Điều trị bằng nhiệt lạnh có tác dụng làmgiảm phù nề, giảm đau nhanh.
Nhiệt lạnh (thường dưới 15oC)
Có hai cách sử dụng nhiệt lạnh: - Nhiệt lạnh kéo dài sẽ có tác dụng làm các mạch máu nhỏ co lại dẫn đến tốc độ dòng máu chậm lại và giảm tuần hoàn tại chỗ, giảm chuyển hóa, giảm tiêu thụ ôxy, giảm tính thấm thành mạch và khả năng xuyên mạch của bạch cầu, giảm phù nề, giảm phản ứng viêm và đau cấp, giảm trương lực cơ. Vì vậy, điều trị bằng nhiệt lạnh có tác dụng làm giảm phù nề, giảm đau cấp.
Tác động nhiệt lạnh không liên tục (như chà xát đá) thì sự tác động lên vận mạch lúc đầu gây co mạch sau đó gây giãn mạch sung huyết làm tăng lưu lượng tuần hoàn, tăng tầm vận động khớp ở bệnh nhân co cứng khớp, giảm co giật cơ.
Nhiệt lạnh được chỉ định trong các chứng đau cấp như: đau ngay sau chấn thương, đau răng, đau đầu. Có tác dụng hạn chế xuất huyết, phù nề ở nông; hạn chế viêm cấp; hạ thân nhiệt khi sốt cao; giảm đau trong một số trường hợp tổn thương thần kinh ngoại vi, đau co cứng cơ.
Các phương pháp điều trị nhiệt lạnh
Chườm đá: là phương pháp hay dùng nhất, có thể cho đá lạnh vào túi rồi đắp lên vùng điều trị để giảm đau cấp. Chà xát đá: để giảm đau co cứng cơ.
Ngâm lạnh: phương pháp này chỉ áp dụng với chân và tay.
Bình xịt thuốc tê lạnh Kelen: dùng trong chấn thương thể thao.
Phương pháp nhiệt lạnh không nên dùng cho một số trường hợp như: bệnh nhân mẫn cảm với lạnh, mày đay do lạnh, bệnh đông với globulin máu, có tiền sử bệnh raynaud...
Theo SKDS