Nhận biết triệu chứng và điều trị bệnh lao phổi

     Bệnh lao phổi thường gặp ở những người có kinh tế thu nhập không ổn định, gia đình đông con, sống nơi thành thị đông đúc chật hẹp...

     Bệnh lao phổi thường gặp ở những người có kinh tế thu nhập không ổn định, gia đình đông con, sống nơi thành thị đông đúc chật hẹp...

    Số trường hợp lao mới đang tăng. Năm 2007, thế giới có 13,7 triệu ca lao mạn tính hoạt động, 9,3 triệu ca lao mới, và 1,8 triệu người chết vì lao mà nhiều nhất là ở các nước đang phát triển. Phân bố không đồng nhất: thử lao tố da dương tính ở 80% dân số nhiều nước châu Á và châu Phi, trong khi chỉ dương tính ở 5 - 10% dân số Mỹ.

    Các yếu tố nguy cơ

    Có khoảng 5 - 10% trường hợp lao sơ nhiễm trở thành lao thực sự, phụ thuộc vào một loạt các yếu tố nguy cơ như: bệnh bụi phổi, đái tháo đường, cắt dạ dày, nối tắt ruột, ghép tạng, ung thư, dùng kim chung ở người nghiện, điều trị corticosteroid kéo dài, bệnh bạch cầu, Hodgkin, suy dinh dưỡng, nghiện rượu, nhiễm HIV/AIDS, suy thận mạn, là nhân viên y tế, điều kiện kinh tế-xã hội thấp, sống chật chội, vô gia cư…

    Tác nhân gây bệnh

    Tác nhân chính là Mycobacterium tuberculosis (MT, quen gọi là vi khuẩn Koch hay BK, mang tên nhà vi khuẩn học người Đức Robert Koch). Ngoài ra còn có các Mycobacterium khác cũng gây ra bệnh lao như: M. bovis (vi khuẩn lao ở bò trước đây cũng hay gặp gây ra bệnh lao ở người, nay đã bị loại trừ ở các nước phát triển nhờ tiệt khuẩn sữa bằng phương pháp Pasteur), M. africanum (không phân bố rộng nhưng là nguyên nhân quan trọng của lao ở nhiều vùng châu Phi). BK là một vi khuẩn nhỏ, không di chuyển, hiếu khí. Vỏ mỡ của nó bắt màu đỏ của một bazơ là carbol-fuchsin và không bị phai màu khi rửa với acid loãng, do đó BK là một vi khuẩn bền màu với acid. Nhuộm Ziehl-Neelsen, BK có màu đỏ sáng nhìn rõ trên nền xanh lục.

    Vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây lao phổi

    Quá trình gây bệnh

    Phần lớn BK hít vào phổi sẽ bị loại trừ bởi cơ chế bảo vệ của đường hô hấp trên. Chỉ các mảnh nhỏ có đường kính < 5mm là qua được các phế quản tận để vào các phế nang, tại đó chúng xâm nhập và nhân đôi trong các đại thực bào phế nang. Tổn thương nhiễm đầu tiên ở phổi - lao sơ nhiễm - được gọi là ổ Ghon (mang tên nhà giải phẫu bệnh Anton Ghon người Áo, 1866 - 1936), là một nốt nhỏ dạng viêm hạt và khi to lên hay khi bị canxi-hóa thì có thể thấy được trên phim X-quang phổi. Trẻ bị lao sơ nhiễm có thể có các biểu hiện như gầy yếu, xuống cân, sốt nhẹ… nhưng thường là không có triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm đàm tìm BK âm tính, phản ứng da với lao tố chuyển dương, và không có khả năng lây bệnh cho người khác. Vị trí kinh điển của lao sơ nhiễm là quanh các khe giữa các thùy phổi. Thường đi kèm phì đại các hạch vùng trung thất, khi đó ta có một phức hợp Ghon hay phức hợp lao sơ nhiễm.

    Lao sơ nhiễm thường sẽ khỏi, nhưng ở một số người nhất là những người bị suy giảm miễn dịch thì có thể phát triển thành lao kê, đó là những hạt trắng nhỏ gặp tại khắp các mô của cơ thể, bệnh hết sức nặng có thể tử vong đến 100% nếu không được điều trị. Chỉ có khoảng 10% lao sơ nhiễm là tiến triển thành lao hoạt động. Khi đó vi trùng lao lan theo đường máu đi tới các mô và các tạng khác của cơ thể tạo ra các thương tổn lao thứ cấp: ở các vị trí khác của phổi (chiếm đa số, thường gặp tại các đỉnh phổi) hay ngoài phổi.

    Triệu chứng lao phổi

    Các triệu chứng kinh điển bao gồm: ho kéo dài với đàm có lẫn máu, sốt, ra mồ hôi về đêm, sụt cân. Chẩn đoán dựa vào chụp X-quang phổi, thử phản ứng da với lao tố, thử máu, tìm và nuôi cấy vi khuẩn ở đàm, mủ và các dịch của cơ thể.

    Các hình ảnh X-quang của lao phổi hoạt động có thể gặp: 1. Thâm nhiễm là những nốt mờ ở một phân thùy, đôi khi cả một thùy phổi, thường khu trú ở các đỉnh phổi; 2. Tổn thương hang; 3. Dạng nốt với bờ không rõ của lao; 4. Tràn dịch màng phổi; 5. Phì đại các hạch rốn phổi ở một hay hai bên; 6. Lao kê với các hạt đường kính 1 - 2mm ở khắp các mô của cơ thể.

    Chẩn đoán lao phổi

    Chẩn đoán lao phổi thường dựa vào 3 yếu tố:

    Nguồn lây: rất quan trọng đối với trẻ em, người lớn ít hơn.

    Lâm sàng: hội chứng nhiễm lao thường có khuynh hướng kéo dài vì bản chất của lao là mạn tính.

    Cận lâm sàng:

    Thử đàm tìm vi khuẩn lao: đây là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán lao, nhưng thường âm tính, tùy theo giai đoạn tiến triển của bệnh lao, hoặc đôi khi bệnh nhân đã vô tình sử dụng các thuốc ảnh hưởng lên vi khuẩn lao nên việc tìm BK ở đàm là rất khó. Một vấn đề lớn nữa trong chẩn đoán lao là khó khăn trong việc nuôi cấy loại vi khuẩn mọc chậm này ở phòng thí nghiệm (4 - 12 tuần cho cấy máu hay cấy mủ).

    Khi đó chẩn đoán có thể dựa vào chụp X-quang phổi và thử phản ứng da với lao tố, tuy nhiên nhiều trường hợp vẫn không thể kết luận một cách chắc chắn.

    Phản ứng khuếch đại gen: nhanh, nhạy và đặc hiệu để phát hiện DNA của BK, trong trường hợp không tìm thấy BK ở các mẫu đàm.

    Điều trị lao phổi

    Những năm gần đây nổi lên vấn đề lao kháng nhiều thuốc. Có thể là: kháng thuốc tự nhiên, hoặc kháng thuốc ở những bệnh nhân đã được điều trị trước đó hay chưa được điều trị. Vấn đề này rất nguy hiểm, làm cho việc chữa khỏi bệnh lao trở nên hết sức khó khăn.

    Có 2 quan điểm trong điều trị bệnh lao phổi:

    Đối với thầy thuốc chuyên khoa lao: các trường hợp lao phổi BK dương tính, bệnh nhân được quản lý và điều trị theo chương trình chống lao; còn các trường hợp BK âm tính thì quản lý và điều trị theo một tỉ lệ quy định bởi chương trình chống lao.

    Đối với thầy thuốc không phải chuyên khoa lao: điều trị cho từng trường hợp lâm sàng, nếu có đủ các yếu tố chẩn đoán lao phổi (bao gồm nguồn lây, bệnh kéo dài, tổn thương X-quang phù hợp với lao phổi) thì việc điều trị phải tuân thủ chương trình chống lao chung.

    Phòng bệnh dựa vào các chương trình tầm soát và tiêm chủng:

    - Tiêm chủng với vắc-xin BCG là chủ yếu.

    - Lây truyền bệnh lao chỉ xảy ra từ người mắc bệnh lao hoạt động. Có thể ngăn chặn lây bệnh bằng cách ly những người này và bắt đầu điều trị lao hiệu quả (sau 2 tuần, người bị lao hoạt động nói chung nếu không kháng thuốc sẽ hết khả năng lây nhiễm).

    Theo SKDS