Thuốc dự phòng và điều trị bệnh thương hàn
Thương hàn là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây bằng đường tiêu hóa, do trực khuẩn salmonella typhi và salmonella paratyphi gây nên. Biểu hiện lâm sàng là hội chứng nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân, kèm theo tổn thương đặc hiệu tại đường tiêu hóa.
Thương hàn là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây bằng đường tiêu hóa, do trực khuẩn salmonella typhi và salmonella paratyphi gây nên. Biểu hiện lâm sàng là hội chứng nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân, kèm theo tổn thương đặc hiệu tại đường tiêu hóa. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều biến chứng có thể xảy ra, thậm chí có thể tử vong.
Biểu hiện của bệnh
Bệnh thương hàn là do trực khuẩn salmonella typhi và salmonella paratyphi gây nên. Bệnh lây truyền qua đường ăn uống bởi nước hay thức ăn bị nhiễm vi khuẩn. Bệnh nhân bị bệnh cấp tính có thể lây ra môi trường nước xung quanh qua phân, ở giai đoạn cấp, các chất thải (phân) có chứa nồng độ vi khuẩn rất cao.
Sau khi nhiễm bệnh 7 - 15 ngày là thời gian ủ bệnh, ở giai đoạn này không có biểu hiện gì, sau đó sẽ xuất hiện các triệu chứng quan trọng:
Sốt: đây là triệu chứng quan trọng và hằng định, sốt cao liên tục 39 – 40 độ C, sốt hình cao nguyên và sốt nóng là chủ yếu. Tùy theo trường hợp, biểu hiện thần kinh ở các mức độ khác nhau từ nhức đầu, mất ngủ, ù tai, nói ngọng đến tình trạng nằm bất động thờ ơ với ngoại cảnh, rồi có thể li bì, mê sảng hoặc hôn mê (ít gặp).
Xuất hiện các ban dát nhỏ 2 - 3mm, màu hồng thường mọc ở bụng, mạn sườn, ngực – còn gọi là hồng ban.
Gan to mềm, bụng trướng nhẹ, đau dọc hố chậu phải, đi ngoài khoảng 5 - 6lần/ngày, phân màu vàng nâu, đặc biệt mùi rất khắm.
Hình ảnh rìa lưỡi đỏ, giữa lưỡi phủ một lớp rêu màu trắng hoặc xám.
Mạch chậm tương đối so với huyết áp, huyết áp thấp.
Bệnh phó thương hàn (paratyphoid fever) cũng có hình ảnh lâm sàng tương tự như bệnh thương hàn nhưng nhẹ hơn và tỷ lệ tử vong thấp hơn nhiều.
Vi khuẩn gây bệnh thương hàn.
Biến chứng nào có thể
Đây có thể nói là một trong các bệnh có nhiều biến chứng nguy hiểm nhất trong số các bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa. Biến chứng có thể do độc tố, do bội nhiễm vi khuẩn khác, do tai biến của kháng sinh.
Xuất huyết tiêu hóa: gặp khoảng 15%, tùy mức độ mất máu mà có các biểu hiện khác nhau như vã mồ hôi, da xanh niêm mạc nhợt, đi ngoài phân đen, mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt; Thủng ruột: gặp khoảng 1 - 3%. Ngoài ra, còn có thể gặp viêm cơ tim; trụy tim mạch; viêm túi mật, viêm gan; viêm não màng não; viêm cầu thận; viêm đài bể thận.
Điều trị và dự phòng như thế nào?
Kháng sinh là thuốc đầu tay, hiện nay, có rất nhiều kháng sinh có thể lựa chọn với ưu tiên là các thuốc thuộc nhóm quinolon thế hệ hai, ngoài ra, có thể sử dụng các nhóm thuốc cũ như cefalosporin, choloramphenicol. Tùy theo tình trạng, tùy theo mức độ và tùy theo điều kiện thực tế mà bác sĩ sẽ cho chỉ định điều trị hợp lý.
Trong nhóm quinolon thế hệ 2, ciproflocacin là thuốc được lựa chọn đầu tiên trong điều trị bệnh lý nhiễm khuẩn tiêu hóa do hiệu quả cao. Thuốc hấp thu nhanh và dễ dàng qua đường tiêu hóa, sinh khả dụng khoảng 70 - 95%. Thức ăn và các thuốc kháng acid làm chậm hấp thu thuốc. Phân bố rộng khắp các mô và dịch cơ thể ít qua hàng rào máu não ở người bình thường nhưng khi màng não bị viêm thì xâm nhập tốt hơn. Thuốc qua được nhau thai và sữa mẹ. Tuy nhiên, khi dùng thuốc có một số tác dụng không mong muốn có thể xảy ra như rối loạn tiêu hóa, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy; gây đau nhức xương khớp, kém phát triển xương khớp, nhất là ở tuổi đang phát triển; ngoài ra, có thể có các biểu hiện khác như nhức đầu, chóng mặt, buồn ngủ, có trường hợp kích động, động kinh, nhất là khi dùng cùng với theophylin, tăng bạch cầu ưa acid, giảm bạch cầu lympho, giảm bạch cầu đa nhân, giảm tiểu cầu, thiếu máu.
Bên cạnh dùng kháng sinh thì các vấn đề khác cũng cần được chú ý như bù nước và điện giải, trợ tim mạch, sinh tố an thần, trong đó bù nước và điện giải hết sức quan trọng vì với bệnh thương hàn, bệnh nhân thường sốt cao. Thuốc được sử dụng đầu tay chính là dung dịch bù nước và điện giải. Tuy không điều trị được nguyên nhân nhưng đây là biện pháp căn bản để chống mất nước và điện giải, từ đó tránh được các rối loạn do mất nước và điện giải gây ra.
Thường dùng là oresol (1 gói chứa 20g glucose khan, 3,5g natriclorit; 2,9g natricitrat và 1,5g kaliclorit) 1 gói pha trong 1 lít nước sôi để nguội, uống liên tục trong ngày, tùy theo mức độ mất nước có thể sử dụng 2 - 3 gói trong ngày.
Có thể thay thế oresol bằng viên hydrit, mỗi lần uống 1 viên pha vào 200ml nước.
Cần chú ý pha thuốc đúng tỷ lệ, nếu quá loãng sẽ không cung cấp đủ lượng chất điện giải cần thiết, nếu quá đặc sẽ dẫn đến tình trạng quá tải các chất điện giải.
Để dự phòng, cần cải thiện tình trạng vệ sinh môi trường, kiểm soát nước, chất thải, cống rãnh, khử trùng nguồn nước; cách ly và xử lý chất thải của bệnh nhân, kiểm soát chặt chẽ và điều trị người lành mang trùng. Trong vùng có nhiều người mắc bệnh hoặc vùng bị lũ lụt, ô nhiễm môi trường nặng, cần được sát khuẩn bằng dung dịch cloramin B, vôi bột. Ở những nơi bệnh thương hàn thường xuyên xảy ra, nên tiêm phòng bằng vaccin, tùy từng hiệu lực của từng loại vaccin có thể tiêm nhắc lại sau 2 - 5 năm.
Theo SKDS