Chữa vảy nến bằng thuốc sinh học, cần lưu ý gì?

    Điều trị bệnh vảy nến bằng các chế phẩm sinh học nhằm ngăn chặn quá trình di chuyển của tế bào trình diện kháng nguyên tới hạch bạch huyết hoặc ngăn lympho T hoạt hoá, hoặc cản trở quá trình tương tác giữa tế bào lympho T và APC... theo cơ chế miễn dịch.

     Điều trị bệnh vảy nến bằng các chế phẩm sinh học nhằm ngăn chặn quá trình di chuyển của tế bào trình diện kháng nguyên tới hạch bạch huyết hoặc ngăn lympho T hoạt hoá, hoặc cản trở quá trình tương tác giữa tế bào lympho T và APC... theo cơ chế miễn dịch.

    Bệnh vảy nến là tình trạng viêm mạn tính của da do nhiều yếu tố tác động lên cơ chế bệnh sinh bao gồm yếu tố về gen, các yếu tố kích hoạt (vi khuẩn, virut, thuốc, stress...), hệ miễn dịch với vai trò của lympho T, các cytokine... gây ra tình trạng quá sản và rối loạn phát triển của tế bào sừng. Bệnh chiếm tỷ lệ khoảng 2,5% dân số thế giới nhưng tỷ lệ cao hơn ở người châu Âu - Mỹ da trắng, thấp hơn ở người châu Á - Phi, trong đó thể bệnh trung bình và nặng chiếm khoảng gần 30%. Bệnh ít khi gây tử vong nhưng ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý, khả năng sinh hoạt, lao động của người bệnh.

    Một số loại thuốc chữa vảy nến không dùng cho phụ nữ có thai.

    Thuốc sinh học (biological drugs) là các thành phần của cơ thể sống hoặc là sản phẩm tạo ra từ cơ thể sống được sử dụng để phòng ngừa hoặc điều trị bệnh.

    Efalizumab (raptiva) được Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) chứng nhận vào năm 2003 để điều trị vảy nến thể mảng vừa và nặng, dai dẳng và khuyến cáo dùng cho các trường hợp không dùng được các thuốc điều trị vảy nến nhóm kháng TNF alpha. Thuốc không có chỉ định cho vảy nến thể khớp vì ít có tác dụng so với các thuốc sinh học khác.

    Cần lưu ý, do tác dụng phụ nghiêm trọng làm giảm tiểu cầu nên trước khi điều trị cần xét nghiệm số lượng tiểu cầu và làm lại hàng tháng trong 3 tháng đầu, sau đó cứ 3 tháng kiểm tra 1 lần. Ngoài ra, cần chụp Xquang, xét nghiệm HCG (ở phụ nữ muốn có thai), công thức máu, đặc biệt số lượng bạch cầu, tiểu cầu.

    Người bệnh dùng thuốc này có thể bị đau đầu, mệt mỏi, sốt, lạnh run, nhiễm trùng. Ngoài ra có thể gặp hiện tượng vảy nến bùng phát trong tuần điều trị thứ 6 - 12 hoặc tái phát khi dừng thuốc. Một số trường hợp u ác tính, tăng sản bạch cầu và nhiễm trùng cơ hội cũng đã được báo cáo ở bệnh nhân vảy nến điều trị bằng efalizumab. Không dùng thuốc trong các trường hợp mẫn cảm với thuốc, phụ nữ có thai. Lưu ý khi dùng cho người già, suy giảm miễn dịch, giảm tiểu cầu, dùng vaccin sống, đang bị các bệnh nhiễm trùng.

    Alefacept (amevive) được dùng điều trị vảy nến thể mảng vừa và nặng, dai dẳng. Đây là thuốc đầu tiên trong nhóm có nguồn gốc sinh học được công nhận điều trị vảy nến với hiệu quả kéo dài và ít tác dụng phụ. Bệnh nhân cần phải được kiểm tra CD4 trước khi điều trị và cứ 2 tuần/lần trong quá trình điều trị.

    Tác dụng phụ thông thường có thể gặp: đau đầu, ngứa, viêm mũi - họng, tăng nguy cơ nhiễm cúm, nhiễm trùng đường hô hấp trên. Các tác dụng phụ nghiêm trọng gồm: giảm bạch cầu, nhiễm trùng nặng, suy chức năng gan (do nhiễm virut viêm gan), bệnh ác tính... tuy nhiên rất hiếm gặp. Không dùng thuốc cho người nhiễm HIV, mẫn cảm với thuốc; thận trọng dùng với người đang mắc các bệnh nhiễm trùng, dùng vaccin sống, có tiền sử các bệnh ác tính, phụ nữ có thai.

    Nhóm ức chế TNF: Nhóm này gồm các thuốc infliximab, etanercept và adalimumab có tác dụng ức chế và làm giảm TNF, là một cytokine tạo ra từ đại thực bào, bạch cầu đơn nhân, lympho T, tế bào sừng và tế bào đuôi gai, có vai trò quan trọng trong quá trình viêm trong bệnh vảy nến. Các thuốc ức chế TNF trở nên quan trọng trong điều trị nhiều bệnh có hiện tượng viêm nổi trội, tuy nhiên theo lý thuyết thì nhóm thuốc này sẽ làm giảm sự đề kháng của cơ thể trước các bệnh nhiễm trùng và khối u, vì vậy cần thận trọng khi sử dụng.

    Etanercept được dùng điều trị vảy nến mảng vừa và nặng từ năm 2004. Thuốc này còn được dùng điều trị thấp khớp, vảy nến thể khớp, viêm khớp dạng thấp thiếu niên tiến triển. Thông thường cải thiện lâm sàng đạt được trong vòng 4-8 tuần dùng thuốc.

    Trước khi dùng thuốc nên xét nghiệm công thức máu, máu lắng, ure, creatinin máu, men gan, loại trừ các bệnh suy tim, lao phổi, virut viêm gan C và làm lại sau 3 tháng điều trị.

    Tác dụng phụ thường gặp là: phản ứng tại chỗ, ho, nhức đầu. Các tác dụng phụ nặng hơn có thể gặp như nhiễm trùng nặng, thiếu máu, giảm bạch cầu, bệnh bạch cầu ác tính, suy tim tiến triển… Không dùng thuốc với các trường hợp mẫn cảm với thuốc, đang bị bệnh nhiễm trùng. Thận trọng với người có tiền sử bệnh tim mạch, thần kinh, bệnh ác tính, phụ nữ có thai.

    Infliximab được FDA chấp thuận điều trị vảy nến mảng dai dẳng vừa và nặng từ năm 2006. Ngoài ra còn được điều trị trong viêm khớp dạng thấp, bệnh Crohn, viêm cột sống dính khớp, vảy nến thể khớp. Do tác dụng nhanh chóng nên infliximab được chỉ định trong các tình trạng cấp tính và cần cải thiện nhanh như đỏ da toàn thân, vảy nến thể mủ, vảy nến khớp. Cải thiện lâm sàng có thể đạt rất nhanh chóng sau 1-2 tuần điều trị.

    Khi sử dụng cần kiểm tra loại trừ các bệnh nhân bị lao, làm các xét nghiệm ure, creatinin máu, men gan, virut viêm gan B, -HCG (ở phụ nữ), công thức máu và sau đó theo dõi 3 tháng/lần.

    Tác dụng phụ thường gặp là nhức đầu, ngứa ngáy, nhiễm khuẩn đường hô hấp trên. Hiện tượng xuất hiện kháng thể kháng infliximab cũng có thể gặp và làm giảm hiệu lực của thuốc. Nghiêm trọng là biểu hiện vượng phát suy tim, bệnh lao, nấm, viêm gan, hội chứng giả Lupus... Cần ngưng điều trị bằng infliximab nếu men gan tăng từ 5 lần trở lên. Không dùng thuốc trong các trường hợp mẫn cảm với các thành phần của thuốc, suy tim tiến triển độ 3, 4. Thận trọng với phụ nữ có thai.

    Adalimumab: có chỉ định điều trị tương tự như infliximab. Các xét nghiệm khuyến cáo nên làm là Xquang, công thức máu, chức năng gan, viêm gan B, -HCG. Tác dụng phụ bao gồm phản ứng tại chỗ tiêm, đau đầu, viêm mũi - họng, viêm đường hô hấp, tăng triglyceride, mệt mỏi. Các biểu hiện có thể gặp là nguy cơ nhiễm trùng nặng, nhiễm lao hoặc tái bùng phát, nhiễm nấm, hội chứng giả Lupus, nguy cơ bệnh ác tính, thiếu máu. Cần thận trọng với các trường hợp có bệnh tim mạch, mang thai.

    Như vậy, thế hệ của các loại thuốc sinh học đang được ứng dụng và còn tiếp tục được nghiên cứu, phát triển để điều trị hiệu quả nhiều bệnh có liên quan đến cơ chế miễn dịch trong đó có bệnh vảy nến nhằm đạt hiệu quả cao hơn, giảm tác dụng phụ, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. 

    Theo SKDS